Chuyên trang của Tạp chí Cộng sản nghiên cứu, tuyên truyền nghiệp vụ công tác Đảng
Đọc nhiều nhất
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước: Cơ sở lý luận của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

LUẬT SƯ TRẦN THU THỦY
Trưởng Văn phòng luật sư Thiên Pháp thuộc Đoàn luật sư Hà Nội

Bài 3: Sự vận hành của nhà nước dân chủ nhân dân 

Tại Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội Khóa II đã bầu Hồ Chủ tịch giữ chức Chủ tịch nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu cảm ơn Quốc hội và thông qua Quốc hội cảm ơn đồng bào đã tin cậy giao cho Người trách nhiệm nặng nề, vẻ vang là Lãnh đạo Nhà nước_Ảnh: TTXVN

 

8- Hiến pháp và pháp luật

Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất của nhà nước pháp quyền. Chính vì thế mà ngay sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ quyết định tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, lập Ban soạn thảo Hiến pháp do đích thân Người chủ trì. Có một điều trước đây ít nói tới, trước khi có Hiến pháp năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh giữ lại nhiều luật lệ của chế độ cũ, chỉ trừ những điều trái với tiêu chí độc lập, tự do. Người đã giải thích: Một xã hội không thể sống một ngày không có pháp luật.

Tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ trong các quy định tổ chức bộ máy nhà nước, trong hoạt động hành chính, dù là Chủ tịch Đảng, Chính phủ và các đoàn thể, mọi đảng viên, cán bộ, nhân viên nhà nước, tướng lĩnh, sĩ quan và binh sĩ trong các lực lượng vũ trang… đều phải tuân thủ pháp luật, không ai được đứng trên hay đứng ngoài pháp luật.

Với các cơ quan tư pháp, Người đã chỉ rõ phải “phụng công thủ pháp, chí công vô . Tư pháp phải bảo vệ pháp luật, bảo vệ nhân dân, vì thế Người đòi hỏi bất kỳ ai đều phải tuân thủ pháp luật, đồng thời không một ai vi phạm pháp luật lại không bị nghiêm trị một cách công minh.

Tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất nghiêm khắc nhưng thấm đượm tính nhân văn sâu sắc, mang tính “trị bệnh cứu người” với phương châm “lý lẽ phân minh, nghĩa tình đầy đủ”. Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều có chung nhận xét: Với cương vị lãnh đạo cao nhất của một đảng duy nhất cầm quyền và của một nhà nước dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý mọi công việc nghiêm khắc mà lại nhân từ, khoan dung.

24 năm làm Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dốc toàn bộ trí tuệ, tinh thần và sức lực vào lãnh đạo 2 cuộc chiến tranh gay go, khốc liệt nhất trong lịch sử dân tộc, nhưng Người cũng đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng 2 bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, xây dựng 16 đạo luật, ký trên 1.300 sắc lệnh và văn bản luật. Đó là một con số không nhỏ, xét từ số lượng; đồng thời, còn là nền tảng vô cùng vững chắc cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của chúng ta ngày nay.

9- Thiết kế cơ cấu tổ chức hoạt động của Nhà nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh không dùng thuật ngữ “hệ thống chính trị”, nhưng cơ cấu tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước Người đều là “kiến trúc ; trên thực tế hiện hữu cho thấy rõ tính chất của một hệ thống chính trị như hiện nay chúng ta đang hiểu. Đó là một cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động sáng tạo, độc đáo thích hợp, chắc chắn về nguyên tắc, cơ động mềm dẻo và linh hoạt trong hành động. Đó là một cơ cấu và cơ chế nhất quán về chính trị học, triết học, xã hội học, luật học, tổ chức học có sự tham khảo mô hình tổ chức các nước phát triển, kể cả tham khảo hiến pháp của các nước tư bản điển hình.

Về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước

Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố có tính quyết định để xây dựng nhà nước dân chủ kiểu mới. Trong điều kiện chính trị phức tạp buổi đầu lập nên nền dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vừa tôn vinh vai trò của Nhà nước, làm cho Nhà nước dân chủ kiểu mới trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc. Đây là một sáng tạo độc đáo của Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành. Cũng với tinh thần ấy, trong Lời tuyên bố trước Quốc hội năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới: Tôi chỉ có một đảng, Đảng Việt Nam. Đến khi Đảng ra công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, trong Báo cáo chính trị đọc trước Đại hội II của Đảng, Người chỉ rõ: Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó là Đảng của dân tộc Việt Nam.

Năm 1955, khi cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn (giải phóng miền Bắc), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời một tờ báo của nước ngoài rằng: Đảng của chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi.

Làm thế nào để các tổ chức nhà nước, các đoàn thể nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng là người lãnh đạo? Câu trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo.

Rõ ràng, những tuyên bố trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là sách lược chính trị, mà xuyên suốt một tư tưởng chỉ đạo chiến lược: Đảng không làm thay Nhà nước, Đảng không cai trị mà tôn vinh Nhà nước, bảo đảm để Nhà nước có thực quyền làm chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội.

Về tổ chức bộ máy của Nhà nước

Hình thức chính thể của Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là dân chủ cộng hòa, được xác lập trong bản Hiến pháp năm 1946. Hình thức cấu trúc là Nhà nước đơn nhất, thống nhất, không có sự phân chia. Nghị viện nhân dân được Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và là cơ quan lập pháp. Quyền lực tối cao là quyền lập pháp thuộc Nghị viện nhân dân; nhưng khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ. Những sắc luật đó phải đem trình Nghị viện vào các phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ.

Chính phủ được Hiến pháp quy định là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc. Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phó Chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, các bộ trưởng, thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng (theo Hiến pháp năm 1946).

Đến Hiến pháp năm 1959 có một số thay đổi: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, nhưng Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại có quyền ra pháp lệnh. Chủ tịch nước không còn là người đứng đầu Chính phủ nhưng “khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ”. “Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Về quyền tư pháp, Hiến pháp năm 1946 đã mạnh dạn vận dụng nguyên tắc “Trong khi xét xử, các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Quyền tư pháp đã có sự độc lập với quyền lập pháp và hành pháp, được xác định trong Hiến pháp năm 1959: “Khi xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Tóm lại, ta có thể tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất có phân công giữa các cơ quan thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thống nhất quyền lực chứ không phải tập trung quyền lực vào Quốc hội. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, như vậy vừa phát huy được quyền lực của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, vừa tạo ra cơ quan hành chính cao nhất có đủ quyền hành để thực thi quyền hành pháp.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tham dự phiên khai mạc Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 5-5-2025_ Ảnh: Thùy Linh

 

10- Giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa các cơ quan thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

Là người chủ trì xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết và thực thi có hiệu quả mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các cơ quan lập pháp, tư pháp trong bộ máy nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất quán trong tư duy và hành động: Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công. Người quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất. Nó thống nhất ở nhân dân. Sự thống nhất quyền lực ấy được thực hiện chủ yếu theo một chế độ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là “Ủy thác quyền lực”, tức nhân dân ủy thác quyền lực của mình cho những đại biểu, đại diện ưu tú do chính nhân dân thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và kín bầu ra. Cơ quan đại biểu được nhân dân cả nước ủy thác là Nghị viện nhân dân (Hiến pháp năm 1946), là Quốc hội (Hiến pháp năm 1959...).

Hiến pháp năm 1946 được soạn thảo dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” (Điều 22). “Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra...” (Điều 24). “Nghị viên không phải chỉ thay mặt cho địa phương mình mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân” (Điều 25). Trách nhiệm của Nghị viện nhân dân là “giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài” (Điều 23).

Hiến pháp năm 1959 cũng do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo, đã khẳng định lại những điều nói trên một cách rõ ràng: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân...” (Điều 4). Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm quyền lực nhà nước tuy thống nhất vào nhân dân thông qua cơ quan đại biểu của nó do nhân dân bầu ra, nhưng các nhánh quyền lực, các cơ quan thực thi quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp lại không tập trung, không dồn lại làm một mà cần có sự phân công rành mạch.            

Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính các cấp cũng được xác định rõ trong Chương V ở các điều 57, 58, 59, 60 (Hiến pháp năm 1946). Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra ủy ban hành chính. Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của các cấp trên.

Ủy ban hành chính là cơ quan chỉ huy công việc hành chính ở địa phương. Phải thi hành các mệnh lệnh của cấp trên (bảo đảm sự chỉ huy điều hành của hệ thống hành chính thông suốt từ Trung ương (Chính phủ) xuống tới cơ sở). Phải chấp hành và thi hành nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp khi nghị quyết đó đã được cấp trên chuẩn y. Do vậy mà ủy ban hành chính vừa phải chịu trách nhiệm trước cấp trên, vừa phải chịu trách nhiệm đối với hội đồng nhân dân cùng cấp.

Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo Hiến pháp năm 1946 (Điều 63) gồm có: Toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp” (Điều 69). Như vậy là tòa án được quyền độc lập xét xử không phụ thuộc vào sự chỉ huy, điều hành hay gợi ý từ bất cứ cơ quan nào của Nhà nước.

Với sự phân công như trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo và thực thi nhất quán quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công (hiến định) giữa các cơ quan thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự phân công này không có sự cứng nhắc dẫn tới phân lập, quyền lực đối trọng với quyền lực, mà ngược lại có sự phối hợp “ăn khớp” (chữ dùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Cơ quan lập pháp có quyền giám sát tối cao đối với các hoạt động hành chính. Cơ quan hành chính thực thi quyền hành pháp và chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp. Chủ tịch Chính phủ có quyền đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện; trong trường hợp Nghị viện không họp thì đề nghị những dự án luật ra trước Ủy ban Thường vụ Nghị viện. Chính phủ và các Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức. Các Bộ trưởng phải trả lời chất vấn của Nghị viện hoặc Ban Thường vụ Nghị viện.

Với cơ quan tư pháp, trong xét xử hoàn toàn độc lập, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật. Nhưng không phải là sự “độc lập tuyệt đối”, trong một số trường hợp lại cần có sự phối hợp và quy định quyền hạn để bảo vệ pháp luật. Ví dụ: “Mỗi khi truy tố Chủ tịch, Phó Chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ lập một Toà án đặc biệt để xét xử. Việc bắt bớ và truy tố trước toà án một nhân viên Nội các về thường tội phải có sự ưng chuẩn của Hội đồng Chính phủ” (Điều 51, Hiến pháp năm 1946).

Sự phối hợp ăn khớp trong các cơ quan nhà nước là để cho Nhà nước (nói chung), đặc biệt là cơ quan hành chính (nói riêng) phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, lấy nhân dân làm mục tiêu hành động, làm tâm điểm của sự phối hợp, lấy nhân dân để giám sát mọi hoạt động của Chính phủ.

Kết luận

Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, tăng cường hiệu quả giám sát và kiểm soát quyền lực, phải thực hành dân chủ, bảo đảm trên thực tế quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng.

Cụ thể là, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật để phá bỏ các điểm nghẽn, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khả thi và phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt, cần tập trung vào các lĩnh vực như kinh tế, đất đai, môi trường, tư pháp và phòng, chống tham nhũng...

Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật là vấn đề cơ bản cấp bách phải đi liền với việc giáo dục và nâng cao ý thức, năng lực thực thi pháp luật. Cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là những người làm công tác thực thi pháp luật; nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm.

Cần xây dựng cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả, đặc biệt là giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và người dân. Tăng cường công khai, minh bạch thông tin, tạo điều kiện để người dân tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Phải nghiêm túc thực hiện các nghị quyết của Trung ương về chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phải chấn hưng nền văn hóa dân tộc, xây dựng đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong Đảng và trong nhân dân, đặc biệt chú trọng đến lớp người trẻ, thanh thiếu niên và nhi đồng. Chỉnh đốn Đảng phải đi liền với xây dựng Đảng, cần rút kinh nghiệm để xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận, nhất là cán bộ cấp chiến lược để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng về thể chế mà Đảng ta đang tiến hành.

Rõ ràng những vấn đề cơ bản và quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn đang nóng hổi tính thời sự, thực sự là cẩm nang thần kỳ cho Đảng và nhân dân ta hiện nay./.


Bài viết liên quan Bài viết liên quan

Mới nhất Mới nhất

Đọc nhiều nhất Đọc nhiều nhất