Chuyên trang của Tạp chí Cộng sản nghiên cứu, tuyên truyền nghiệp vụ công tác Đảng
Đọc nhiều nhất
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng nhà nước: Cơ sở lý luận của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

LUẬT SƯ TRẦN THU THỦY
Trưởng Văn phòng luật sư Thiên Pháp thuộc Đoàn luật sư Hà Nội

Bài 1: Nhà nước ta phải của dân, do dân và vì dân

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập_Ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh nền dân chủ cộng hòa Việt Nam, người đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà nước phong kiến Việt Nam không có quyền tự chủ, bị lệ thuộc hoàn toàn vào Chính phủ bảo hộ.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu Chính phủ lâm thời đã long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngay sau khi ra đời, nhà nước đã phải bắt tay vào những việc cần kíp:

1- Làm cho mọi người hiểu rằng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước của dân, do dân và vì dân, phục vụ dân và kính trọng dân

Sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập (ngày 2-9-1945), Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đã gửi tới các cơ quan chính phủ, các ủy ban nhân dân địa phương (từ kỳ đến làng) nhiều thông điệp: Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến dân phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta…

Ngày 15-11-1945, nói chuyện với học viên khóa V - Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Phải làm cho dân mến,… chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ.

2- Nhà nước ấy phải có một nền hành chính biết làm việc

Với tầm nhìn của một nhà chính trị và nhà văn hóa lỗi lạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, việc xây dựng một nhà nước mới không thể chỉ bằng những lời kêu gọi. Giáo dục phải đi đôi với các biện pháp về tổ chức, cơ chế, pháp luật. Vì vậy, Người đã cùng với Đảng bắt tay vào đặt những “viên gạch” đầu tiên để xây dựng một Nhà nước cộng hòa dân chủ và pháp quyền.

Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với các vị bộ trưởng, thứ trưởng: Sau tám mươi năm bị áp bức, bị bóc lột và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và tôi đều chưa quen với kỹ thuật hành chính. Nhưng điều đó không làm chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm vừa học, vừa học vừa làm. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa... Với lòng yêu nước và yêu nhân dân sâu sắc, tôi chắc chúng ta sẽ thành công.

3- Phải tiến hành tổng tuyển cử để có một chính quyền thực sự dân chủ phù hợp với thông lệ quốc tế

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cơ sở đầu tiên của một nhà nước dân chủ và pháp quyền là Hiến pháp, mà muốn có hiến pháp dân chủ thì phải có một cơ quan đại diện cao nhất của dân là Quốc hội. Mặc dù tình hình đất nước đang ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, trong 6 nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, phải tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tốt.

Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 14 quy định tổ chức tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước. Với sự kiện trọng đại này, Việt Nam sau khi làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công là quốc gia đầu tiên thiết lập được nhà nước cộng hòa dân chủ sớm nhất ở Đông Nam châu Á. Tiến hành tổng tuyển cử vào đầu năm 1946 trong thế thù trong giặc ngoài lấn lướt, đe dọa, đây là hành động dũng cảm và một trí tuệ sáng suốt, thấu hiểu được thời cuộc, đặc biệt là lòng tin sâu sắc vào truyền thống yêu nước của nhân dân ta.

Có thể khẳng định, cuộc bầu cử đầu tiên ở nước ta đã thể hiện một trình độ dân chủ, tự do không thua kém bất cứ một quốc gia nào đã có truyền thống dân chủ. Ngày 6-1-1946, cuộc tổng tuyển cử đã được tiến hành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Bất chấp sự phá hoại điên cuồng của bọn phản động ở phía Bắc và cuộc xâm lăng tàn bạo của thực dân Pháp ở phía Nam, tỷ lệ đi bầu cử ở các địa phương vẫn đạt 65% - 95% và đã bầu ra được 333 đại biểu Quốc hội. Ở Hà Nội, Cụ Hồ trúng cử với số phiếu cao nhất là 98,4%.

Tổ chức thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của dân tộc đã hết sức khó khăn, tiến hành cuộc họp Quốc hội đầu tiên trong tình hình bọn phản động tăng cường phá hoại lại càng phức tạp… Không ngăn cản được cuộc tổng tuyển cử, các đảng phái phản động Việt Quốc, Việt Cách âm mưu làm cho Quốc hội không họp được, hoặc nếu có họp cũng không đạt được kết quả. Điều trắng trợn, chúng đòi phải dành cho chúng 70 ghế trong Quốc hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vì đại nghĩa của dân tộc thuyết phục các đại biểu Quốc hội chấp nhận yêu cầu đó. Vượt qua biết bao tình huống khó khăn, phức tạp, dưới sự chèo lái tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 2-3-1946, Kỳ họp thứ nhất Quốc hội (khóa 1) đã long trọng khai mạc tại Thủ đô Hà Nội.

Song song với việc kiện toàn chính quyền trung ương, bộ máy chính quyền các cấp được xây dựng, dần dần được kiện toàn và củng cố về mặt pháp lý. Ngày 22-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 63, quy định việc tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính các cấp. Ngày 21-12-1945, Người ký Sắc lệnh số 77 quy định tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố. Các ủy ban nhân dân được thành lập từ hồi đầu khởi nghĩa và trong Cách mạng Tháng Tám, nay được chính thức thay thế bằng những cơ quan dân cử do phổ thông đầu phiếu bầu ra.

Để bảo đảm quyền dân chủ thực sự của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64, ngày 23-11-1945 và Sắc lệnh số 223, ngày 17-11-1946, về thành lập Ban Thanh tra để “giám sát tất cả các công việc của nhân viên của các ủy ban hành chính và các cơ quan của Chính phủ”, nhận đơn khiếu nại của nhân dân và thành lập một Tòa án đặc biệt để “truy tố các tội hối lộ, tham ô công quỹ”.

Với trí tuệ uyên bác, với quan điểm “lấy dân làm gốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trưởng Ban dự thảo Hiến pháp. Đây là một việc làm có tầm nhìn xa trông rộng của một lãnh tụ thiên tài, bởi Hiến pháp là sự biểu hiện tập trung cao nhất ý chí của một dân tộc, kỷ cương của một đất nước, là yếu tố quan trọng nhất của một nhà nước pháp quyền.

Báo Quốc hội, số đặc biệt ngày 6-1-1946 trân trọng in ở trang đầu hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và bút tích lời kêu gọi của Người khuyên quốc dân đi bỏ phiếu bầu đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước nhà_Ảnh: tư liệu 

 

4. Xác định chủ thể của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhân dân các dân tộc Việt Nam

Là một người cộng sản, một nhà văn hóa lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng trước tiên đến việc chăm lo lợi ích của đa số nhân dân (công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động), nhưng bao trùm là sự nhìn nhận đúng đắn, sáng tạo về dân tộc và đại đoàn kết dân tộc.

Dân tộc bao gồm nhiều tầng lớp, nhiều bộ phận dân cư. Trong khi xác định chủ thể của nhà nước mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng lớp trẻ, lớp thanh niên. Người coi họ là rường cột của nước nhà, là lớp người biết “xẻ núi, lấp biển” và sẽ đưa đất nước ta tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu. Tiếp đến là trí thức, bất cứ được đào tạo từ đâu, đã và đang làm việc, sinh sống ở trong nước hay ở nước ngoài. Với phụ nữ, Người coi đây là lực lượng to lớn của quốc gia, họ hoàn toàn đủ khả năng sánh vai cùng nam giới trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, nhưng họ chưa được đối xử thích đáng trong xã hội. Nếu không giải phóng được phụ nữ thì cách mạng cũng không thể thành công, và nếu không giải phóng được phụ nữ thì chỉ là “cách mạng một nửa”. Người đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong lịch sử dân tộc: Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ.

Nói đến chủ thể của Nhà nước còn phải đặc biệt lưu ý tư tưởng đại đoàn kết dân tộc. Người chỉ rõ, các dân tộc, đa số cũng như thiểu số đều cùng nhau chung sức chung lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta. Đó là một cộng đồng “sống chết cùng có nhau, no đói có nhau”…

Được ủy nhiệm của Quốc hội thành lập Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, ngày 31-10-1946: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái. Trong thành phần của Chính phủ liên hợp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời nhiều nhân sĩ, trí thức lớn, kể cả quan lại cao cấp của chế độ cũ, tham gia Chính phủ.

Hiến pháp năm 1946 do Người chủ trì soạn thảo, đã được Quốc hội nhất trí thông qua, làm nức lòng các tầng lớp nhân dân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử mới có một văn bản pháp lý cao nhất, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1, Hiến pháp năm 1946). “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6, Hiến pháp năm 1946). “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến thiết tùy theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7, Hiến pháp năm 1946). “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8, Hiến pháp năm 1946). “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9, Hiến pháp năm 1946).

Khối đại đoàn kết dân tộc là cơ sở sức mạnh vững chắc của Nhà nước. Đương nhiên, khối đại đoàn kết dân tộc ấy phải được đặt trong một không gian lãnh thổ như cha ông đã từng tuyên bố: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Chính vì vậy mà Điều 2 của Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”.

Tư tưởng đoàn kết thống nhất quốc gia - dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhất quán, như “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình Người sáng lập, xây dựng và lãnh đạo Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là nhờ sức mạnh và niềm tin mãnh liệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự bền vững của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dù kẻ thù định bóp chết từ những ngày còn “trứng nước”. Bởi vì, Người thấu hiểu và vững tin rằng, hễ là người Việt Nam thì ai cũng có: “Một lòng nồng nàn yêu nước”. Lòng yêu nước ấy cũng như của quý, người có nhiều, người có ít nhưng nhiều ít gì thì cũng như năm ngón tay, có ngón ngắn ngón dài, nhưng ngắn dài gì thì cũng đều ở nơi bàn tay, Đảng và Nhà nước phải biết phát huy, phát triển tinh thần yêu nước ấy. Trong thư đăng báo Cứu quốc, số 1915, ra ngày 28-9-1951, trả lời bức thư của 300 ngụy binh công giáo bị bắt nay xin tha tội, cuối thư Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Ngụy binh cũng là con dân nước Việt, nhưng vì dại mà đi lầm đường, cho nên tôi và Chính phủ sẵn sàng tha thứ những người sớm biết lỗi và quay về với đại gia đình kháng chiến.

Đoạn văn đọc trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng thể hiện rõ “sợi chỉ đỏ” quán xuyến toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ sở xã hội của Nhà nước là đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam: Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến, cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ… Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.

(Còn tiếp)


Bài viết liên quan Bài viết liên quan

Mới nhất Mới nhất

Đọc nhiều nhất Đọc nhiều nhất