Chuyên trang của Tạp chí Cộng sản nghiên cứu, tuyên truyền nghiệp vụ công tác Đảng
Đọc nhiều nhất
Giá trị trường tồn tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh
TRẦN MINH NGỌC

Kỳ 2: Phương pháp đại đoàn kết sáng tạo, phù hợp sự vận động, biến đổi của thực tiễn khách quan

XDĐ - Khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế đã góp phần cho những kết quả, thành tựu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thành quả này có được nhờ sự nỗ lực cao độ của toàn bộ hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện chiến lược đại đoàn kết.

Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ đưa nước Việt Nam đến đài vinh quang_Nguồn: hanoimoi.vn

 

4. Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh

Dưới sự lãnh đạo, dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ xác định mục tiêu đúng, nguyên tắc đúng, mà còn có phương pháp, biện pháp đúng. Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh không cứng nhắc, không “nhất thành bất biến”, mà linh động, phát triển thích ứng với sự vận động, biến đổi của thực tiễn khách quan. Phương pháp đó được biểu hiện sinh động trên nhiều lĩnh vực của công tác đảng, nhất là công tác dân vận. Có thể phân tích phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh trên ba bình diện: 1- Phương pháp tuyên truyền, giáo dục; 2- Phương pháp tổ chức; 3- Phương pháp “thêm bạn bớt thù”, mở rộng trận tuyến cách mạng và thu hẹp tuyến thù địch.

Thứ nhất, phương pháp tuyên truyền, giáo dục

Trong thế kỷ XX, trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện hai nhiệm vụ “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, với lời hiệu triệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”(1), để đạt được các mục tiêu cơ bản: “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc”, “ai cũng được học hành”, đến mục tiêu cao cả của toàn dân tộc: “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”(2). Đồng thời, thể hiện tư cách của một dân tộc có văn hóa, có trách nhiệm với nhân loại: “… đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà; và góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(3). Đây cũng chính là những nội dung tuyên truyền giáo dục, vận động thấm sâu vào lòng người, có sức lay động, cuốn hút, tập hợp lớn lao không những đối với nhân dân, dân tộc Việt Nam mà còn thu hút được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Vì lẽ đó, Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc đã ban hành Nghị quyết số 24C/18.65 (năm 1987) ghi nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là “một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc, sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội” đồng thời “là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”(4).

Không chỉ độc đáo, sáng tạo trong việc xác định những nội dung tuyên truyền, giáo dục chung nhất, phù hợp với tâm lý, nguyện vọng của cộng đồng, dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hết sức nhạy bén, sáng suốt trong việc chỉ ra những nội dung tuyên truyền, vận động sát hợp với từng giai cấp, từng dân tộc trong một quốc gia nhiều dân tộc.

Với giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nỗi cơ cực của người lao động làm thuê dưới chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc; vai trò, trách nhiệm lịch sử lãnh đạo cách mạng, làm chủ xã hội, làm chủ chế độ mới, làm chủ nhà máy, xí nghiệp; sự cần thiết phải tự học tập, rèn luyện để vươn lên đảm đương vai trò tiền phong; sự cần thiết phải liên minh với nông dân, trí thức và nêu gương sáng cho toàn xã hội.

Với giai cấp nông dân, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề ruộng đất, vấn đề chống sưu cao, thuế nặng, thực hiện khát vọng dân chủ và phát huy truyền thống “tình làng, nghĩa xóm”. Người luôn đánh giá cao vai trò, sức mạnh to lớn của nông dân trong trận tuyến cách mạng, nhấn mạnh sự cần thiết tất yếu của khối liên minh công - nông để tạo thành đội quân chủ lực của cách mạng.

Với trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ, Người biểu thị sự trân trọng đối với quyền tự do sáng tạo, đồng thời luôn luôn căn dặn, nhắc nhở ý thức trách nhiệm với nhân dân, đất nước và tình cảm đối với công nhân, nông dân, nhân dân lao động, sự gắn bó biện chứng giữa lý luận với thực tiễn, khoa học với đời sống, văn học - nghệ thuật với cuộc đời.

Với các cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, Người chú trọng giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng và phẩm chất: “Trung với nước, hiếu với dân”, trí, dũng, liêm…

Với đảng viên, cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị, Người luôn luôn căn dặn phải: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quan liêu bàn giấy, óc địa vị, thói tham ô… Phải phấn đấu làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân.

Với thanh niên, Người thường khơi gợi tinh thần xung phong, gương mẫu, “đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”; ý thức trách nhiệm đối với tương lai, tiền đồ của dân tộc, sự cần thiết phải rèn luyện đạo đức, tác phong và bản lĩnh cách mạng.

Với thiếu niên, nhi đồng, Người nêu ra 5 điều Bác Hồ dạy và nhấn mạnh ý nghĩa sống còn của việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.

Với phụ nữ, nội dung tuyên truyền, giáo dục của Người là nam nữ bình quyền, là khơi dậy và nhân lên những phẩm chất cao quý: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

Với đồng bào các dân tộc ít người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tuyên truyền, giáo dục ý thức bình đẳng, sự cần thiết phải xóa bỏ các thành kiến dân tộc; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần; xóa bỏ các tập tục lạc hậu,... từng bước đưa đồng bào các dân tộc thoát khỏi đói nghèo, tăm tối, tiến kịp miền xuôi.

Với đồng bào các tôn giáo, Người luôn nêu chủ trương tự do tín ngưỡng, tôn giáo và phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”. Người trân trọng và đề cao những giá trị nhân bản trong các giáo lý nguyên sơ, niềm tin vào tinh thần yêu nước và phẩm chất tốt đẹp của những người lao động theo tôn giáo, coi họ là một bộ phận hữu cơ trong cộng đồng quốc gia, dân tộc; phân biệt họ với những phần tử phản động đội lốt tôn giáo.

Với các quan lại, hoàng tộc, nhân sĩ yêu nước, Người biểu thị sự trân trọng ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước của họ; giúp họ nhận thức sâu sắc mưu đồ thâm độc và tội ác của đế quốc, phong kiến, hướng họ trở về với nhân dân, với cách mạng.

Đối với những người bị ép buộc hoặc lầm đường lạc lối, Người luôn luôn dùng chính sách khoan hồng đại độ, giáo dục, cảm hóa, khơi dậy trong tâm hồn họ tinh thần của những người mang dòng máu Lạc Hồng và mở đường đưa họ về với chính nghĩa dân tộc.

Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh có sức mạnh vô địch, sức sống bất diệt, tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành thân thiết, thiêng liêng với dân tộc Việt Nam, với mỗi gia đình, mỗi con người Việt Nam bởi vì Người đã hiểu thấu tất cả, cảm thông tất cả, phấn đấu và hy sinh vì những khát vọng, ước mơ sâu lắng nhất của dân tộc Việt Nam.

Có nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động đúng đắn là yếu tố quan trọng, song hiệu quả tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng còn tùy thuộc vào việc sử dụng các hình thức tuyên truyền, vận động quần chúng thích hợp với từng đối tượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực trong việc sử dụng hiệu quả các hình thức tuyên truyền, giáo dục, khéo vận động quần chúng. Người nói, viết bao giờ cũng ngắn gọn, dễ hiểu theo một phong cách độc đáo, vừa uyên bác vừa phổ thông, vừa sâu sắc vừa giản dị.

Những vấn đề lớn của cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, dân tộc và thời đại đã được Người trình bày với một phong cách riêng, bằng ngôn ngữ gần gũi với những người lao động, mọi người Việt Nam. Từ rất sớm, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu các phương châm tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng quán triệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, là nền tảng tư tưởng của cách mạng, là chân lý tiên tiến của thời đại và phong trào cách mạng Việt Nam: Nói, viết để ai cũng hiểu được, hiểu được thì nhớ được, nhớ được thì làm được. Tất cả chỉ tập trung vào hai chữ cách mạng, cách mạng và cách mạng(5).

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường viết những câu thơ ngắn gọn, súc tích dễ hiểu nhắn nhủ mọi người dân đoàn kết làm cách mạng: “Dân ta xin nhớ chữ đồng:/ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”(6). Trong bài thơ Chơi trăng (Chơi Giăng), Người khẳng định: “Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,/ Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng”(7). Chữ đồng, chữ đoàn kết là những từ ngữ được sử dụng thường xuyên trong đời sống hằng ngày, nhưng trong thơ ca của Bác lại chứa đựng tư tưởng lớn với nhiều khía cạnh nội dung và cách biểu đạt phong phú. Trong bài thơ Hòn đá, Người nói về chữ đồng bằng hình ảnh thực, dẫn dắt người đọc từ một việc nhỏ, đến một việc lớn, từ việc nhấc hòn đá cho đến việc cứu nước:

“Hòn đá to,/ Hòn đá nặng,/ Chỉ một người,/ Nhắc không đặng. (…)

Hòn đá to,/ Hòn đá nặng, Nhiều người nhắc,/ Nhắc lên đặng”.

Và rút ra kết luận: “Biết đồng sức,/ Biết đồng lòng,/ Việc gì khó,/ Làm cũng xong”. Từ đó Người dẫn dắt đến sự thành công của cách mạng: “Đánh Nhật, Pháp,/ Giành tự do,/ Là việc khó,/ Là việc to./ Nếu chúng ta,/ Biết đồng lòng,/ Thì việc đó,/ Quyết thành công”(8). Trong bài thơ Việt Nam độc lập đăng trên báo Việt Nam Độc lập, số 103, ra ngày 21-8-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân từ “trẻ lẫn già”, đoàn kết “cùng nhau cứu nước”: ““Việt Nam độc lập” thổi kèn loa./ Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già/ Đoàn kết vững bền như khối sắt/ Để cùng nhau cứu nước Nam ta!”(9).

Trong cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo, bài thơ, chuyên luận có tính chất triết học, sử học. Người được các nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài ca ngợi là một triết gia, nhà báo lớn, nhà thơ, nhà sử học. Nhận xét về tập thơ “Ngục trung nhật ký” (Nhật ký trong tù) của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, có học giả đánh giá trong đó có những bài vĩnh viễn đứng ở đỉnh cao của thơ ca dân tộc và thơ ca nhân loại… Đánh giá về giá trị tư tưởng, bút pháp và sức sống của các bài báo mà Hồ Chí Minh đã viết trong nửa thế kỷ, có nhà nghiên cứu bình luận: Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà báo vô sản đầu tiên, nhà báo lớn của dân tộc... Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những bài báo của Người vẫn còn mới mẻ, hiện đại, những vấn đề đặt ra, sự thực được miêu tả, thái độ đánh giá của tác giả vẫn có ý nghĩa với hiện tại... Chừng nào những bất công và đau khổ còn tồn tại thì báo chí theo phong cách Hồ Chí Minh vẫn là lời kêu gọi chiến đấu, niềm cổ vũ. Báo chí Hồ Chí Minh là một mẫu mực của báo chí hiện đại. Trên báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp sâu sắc lý luận sắc bén với thực tiễn giàu tính thuyết phục, luôn biết xử lý đúng đắn những hiện tượng chính trị, xã hội với những kiến giải có chiều sâu văn hóa, luôn biết kết hợp có hiệu quả phương thức chính luận của báo chí với phương thức biểu hiện của văn học và nhiều liên ngành khác(10). Đây là những lời bình luận, đánh giá khoa học. Còn với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người chưa bao giờ tự nhận mình là nhà thơ, nhà báo, nhà triết học… Người chỉ nhận mình là một người yêu văn nghệ, một nhà yêu nước, một người cách mạng, một chiến sĩ vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận... Mỗi việc làm của Người, trong đó có việc viết báo, làm thơ cũng đều nhằm một mục đích tuyên truyền, giáo dục vận động quần chúng nhân dân đoàn kết làm cách mạng. Các sản phẩm báo chí, văn thơ của Người là sản phẩm của một con người thông tuệ hiểu nhiều, biết nhiều, sản phẩm của một tâm hồn cao đẹp, một tấm lòng nhân ái,… từ trong những câu chữ giản dị luôn toát lên vẻ đẹp lấp lánh thu hút, cảm hóa lòng người. Cần làm sáng tỏ điều này để tránh sự thần thánh hóa, cường điệu hóa cá nhân để tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng. Quan trọng hơn, để lên án mọi hành động xuyên tạc, hạ thấp hoặc phủ nhận những di sản tư tưởng, văn hóa vốn có mà Người đã để lại cho dân tộc.

Hiệu quả của phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng không chỉ phụ thuộc vào nội dung, hình thức tuyên truyền; mà quan trọng hơn thuộc vào bản thân người tiến hành công tác tuyên truyền, vận động. Muốn quần chúng tin, quần chúng theo, bản thân người cán bộ, đảng viên phải là tấm gương đoàn kết, mẫu mực từ lời nói đến việc làm, có sức lôi cuốn, thu phục quần chúng bởi tình cảm trong sáng và tinh thần tận tụy vì dân, vì nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(11) và “nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”(12).

Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc thầy trong công tác vận động, giáo dục quần chúng. Bản thân Người tỏa sáng sức mạnh tập hợp, dẫn dắt nhân dân. Đồng thời, Người cũng hết lòng chăm lo bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ cách mạng có phẩm chất và năng lực, làm người chiến sĩ tập hợp, đoàn kết nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân

Tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước_Ảnh: tư liệu

 

Thứ hai, phương pháp tổ chức

Chiến lược đại đoàn kết đòi hỏi phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng kết hợp với phương pháp tổ chức khoa học. Đó là phương pháp xây dựng, kiện toàn, không ngừng phát triển các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng. Tính thống nhất của hệ thống chính trị, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính là nhân tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh của đại đoàn kết.

Với tư cách là hạt nhân lãnh đạo, linh hồn của khối đại đoàn kết, Đảng Cộng sản phải được xây dựng trong sạch và vững mạnh. Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có rất nhiều nội dung phong phú. Nhìn từ góc độ chiến lược đại đoàn kết, có thể khái quát ở luận điểm: Đảng Cộng sản phải là người đại diện cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc và đảng viên phải gương mẫu đi trước để làng nước theo sau.

Sau khi giành được chính quyền, khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế phụ thuộc lớn vào hoạt động và vai trò của chính quyền nhà nước. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, củng cố nhà nước dân chủ và pháp quyền trở thành nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người luôn luôn giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải tận tụy phục vụ nhân dân, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tổ chức rộng rãi nhất, liên quan trực tiếp đến việc tập hợp, đoàn kết dân tộc chính là các đoàn thể quần chúng. Các đoàn thể quần chúng đó hợp thành một Mặt trận Dân tộc thống nhất (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Mặt trận càng rộng rãi, mạnh mẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối đại đoàn kết dân tộc càng mạnh mẽ, bền vững bấy nhiêu.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng là sợi dây gắn kết Đảng với Nhân dân. Uy tín, sức mạnh của Đảng và Nhà nước một phần tùy thuộc vào chất lượng tổ chức và hiệu quả hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể. Do vậy, xây dựng, củng cố tổ chức Mặt trận và các thành viên chính là vấn đề chiến lược của cách mạng. Xây dựng, củng cố, phát triển và tập hợp các đoàn thể trong Mặt trận là quá trình cách mạng công phu, đòi hỏi Đảng Cộng sản và những người cách mạng phải có phương pháp khoa học. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sáng lập và lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Người là bậc thầy trong phương pháp tổ chức lực lượng quần chúng.

Phương pháp tổ chức của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các tổ chức, đoàn thể: Phải được xây dựng từ thấp đến cao phù hợp với yêu cầu và trình độ nhận thức của quần chúng. Lúc đầu có thể là các tổ chức sơ khai, kế thừa các tổ chức xã hội truyền thống (các hội hiếu hỉ, hội tương tế,...) để xây dựng quan hệ tương thân, tương ái trong dân chúng, tiến dần tới các tổ chức cách mạng đơn giản, hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi các quyền lợi hằng ngày (các hội ái hữu, hội truyền bá quốc ngữ,...), tiến tới các tổ chức chặt chẽ rộng khắp, thống nhất, hướng quần chúng vào cao trào đấu tranh giành chính quyền (các Hội Cứu quốc, Mặt trận Việt Minh,…).

Hình thức tổ chức các đoàn thể quần chúng phải đa dạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề. Sự ra đời các hội: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nhi đồng cứu vong… trong cao trào cách mạng 1930 - 1945 là điển hình của phương pháp tổ chức Hồ Chí Minh.

Chương trình hành động của các đoàn thể quần chúng phải hết sức rõ ràng, thiết thực, nội dung hoạt động phong phú, phù hợp với nguyện vọng và yêu cầu của quần chúng. Nói về chương trình hành động của Mặt trận Việt minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh tóm gọn trong hai câu diễn ca: “… Có mười chính sách bầy ra,/ Một là ích nước hai là lợi dân…”(13).

Chỉ đạo hoạt động của Mặt trận Việt minh, Người hướng dẫn các hội cứu quốc tổ chức tuyên truyền, giáo dục quần chúng bằng các hình thức phù hợp: tổ chức các lớp học quân sự phổ thông, mở các lớp học chữ quốc ngữ, học hát các bài ca cách mạng... Sức thu hút kỳ diệu của Mặt trận Việt minh bắt nguồn từ bản chất yêu nước cách mạng, tên gọi của Mặt trận, từ phương pháp và nghệ thuật tổ chức Mặt trận.

Người yêu cầu cán bộ của Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể phải đặt công tác dân vận lên hàng đầu; phải “ba cùng” với dân, cần “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”(14). Người căn dặn các cán bộ đoàn thể phải yêu dân, kính trọng dân, học tập dân, chỉ như vậy mới có thể hiểu được “dân tâm, dân tình, dân sinh, dân ý”, mới được dân yêu mến, quý trọng, tin theo.

(Còn tiếp kỳ cuối)

----------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 130
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr 723

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr 242
(4) Xem: “Nghị quyết của UNESCO tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh”, báo Nhân Dân điện tử, ngày 13-9-2022
(5) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 282 - 283
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 266
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 279
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 270 - 271

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 237
(10) Xem: Hà Minh Đức chủ biên: Thời gian và nhân chứng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1974, tr. 7
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 284
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 223
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 242
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 233 – 234

Bài cùng chủ đề