Chuyên trang của Tạp chí Cộng sản nghiên cứu, tuyên truyền nghiệp vụ công tác Đảng
Đọc nhiều nhất
Giá trị trường tồn tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh
TRẦN MINH NGỌC

XDĐ - Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm, nguyên tắc, phương pháp và biện pháp giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của mọi chủ thể của cách mạng: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, quốc gia - dân tộc… trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Kỳ 1:  Tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc

Truyền thống đoàn kết của dân tộc ta có từ ngàn xưa, được hình thành và phát triển cùng tiến trình dựng nước và giữ nước, biểu hiện rõ nét qua phòng chống thiên tai, địch họa, trong đời sống văn hóa, lao động, sản xuất của nhân dân. Cho đến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống (thế kỷ XI), nhà Nguyên (thế kỷ XIII) tinh thần đoàn kết dân tộc đã được phát huy cao độ. Đến thế kỷ XV, trong khởi nghĩa Lam Sơn, tinh thần đoàn kết lại được Lê Lợi, Nguyễn Trãi phát triển lên mức độ cao hơn. Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã đúc kết: “Nhân dân bốn cõi một nhà/ Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử/ Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Theo Nguyễn Trãi, nhờ có sự đoàn kết “bốn cõi một nhà” và tinh thần “tướng sĩ một lòng” mà nghĩa quân Lam Sơn thoát được tình cảnh “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần/ Lúc Khôi Huyện quân không một đội” để vượt qua khó khăn hiểm nghèo, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại giang sơn đất nước...

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy.

Tác phẩm "Bác Hồ với đồng bào các dân tộc" của Họa sĩ Đặng Nam_Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

 

1. Nội hàm phạm trù chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh

Đây là một phạm trù có nội hàm rất rộng, gồm nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ, các quan hệ liên kết giữa các lực lượng xã hội từ nhỏ đến lớn, từ vi mô đến vĩ mô, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới,… và ngược lại. Có thể tiếp cận và lý giải phạm trù chiến lược đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ nhiều giác độ khác nhau: Từ cơ cấu lực lượng đại đoàn kết (giai tầng xã hội - dân tộc - giai cấp - ngành - giới - lứa tuổi...); từ địa bàn đại đoàn kết (nông thôn, thành thị, miền ngược - miền xuôi, rừng núi, hải đảo, đồng bào trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài...); từ phạm vi đại đoàn kết (gia đình - cộng đồng - đảng, đoàn thể, cơ quan, tổ chức, quốc gia - khu vực - quốc tế...).

Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là toàn diện và hệ thống. Nếu chỉ dừng lại ở một cách tiếp cận nào cũng sẽ phiến diện và làm nghèo nàn nội dung vốn vô cùng phong phú, rộng lớn của chiến lược đại đoàn kết.

Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm, nguyên tắc, phương pháp và biện pháp giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của mọi chủ thể của cách mạng: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, quốc gia - dân tộc… trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nói một cách khác, đó là chiến lược xây dựng, củng cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhằm xây dựng tương lai tốt đẹp cho toàn dân tộc, cho xã hội và cho mọi người.

2. Những quan điểm cơ bản và nguyên tắc bất biến trong tư tưởng chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là ngọn cờ và linh hồn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, kiến trúc sư lỗi lạc của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với mục tiêu lý tưởng: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

Với tư cách người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ của Đảng và của dân tộc, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hồ Chí Minh đã có những bổ sung, hoàn thiện nội dung chiến lược đại đoàn kết cho phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn. Trong quá trình đó, Người luôn kiên định những quan điểm và nguyên tắc nhất quán có ý nghĩa như là “xương sống” xuyên suốt của chiến lược đại đoàn kết.

Về quan điểm, theo Người:

- Đại đoàn kết là vấn đề chiến lược có ý nghĩa sống còn lâu dài, quyết định thành bại của cách mạng.

- Xác định đại đoàn kết là một chiến lược, do quy luật khách quan của sự nghiệp cách mạng quy định, xuất phát từ nguyên lý: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng tự giác tiến hành.

- Đại đoàn kết không đơn giản là phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng, mà chính là cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp tư tưởng để hoạch định đường lối chiến lược cách mạng.

Quán triệt đầy đủ những quan điểm then chốt nói trên mới có cơ sở vững chắc để tiếp cận và lý giải những nguyên tắc và phương pháp của chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.

Về nguyên tắc, theo Người:

- Trong từng thời kỳ cách mạng, trước những yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau, có thể và cần thiết có sự điều chỉnh, thay đổi trong phương pháp chỉ đạo, tổ chức, bố trí lực lượng, nhưng đoàn kết trong nội bộ Đảng, trong lực lượng cách mạng, đại đoàn kết dân tộc vì quyền lợi cơ bản của nhân dân và đoàn kết quốc tế là nguyên tắc bất di bất dịch.

Suy cho cùng, ở bất kỳ thời kỳ cách mạng nào, khi xây dựng đường lối chiến lược, vấn đề quan trọng hàng đầu của cách mạng là xác định cho được đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ và chủ trương hành động đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân chúng. Đó chính là cơ sở để tập hợp được mọi lực lượng, mọi tầng lớp, giai cấp, các dân tộc trong nước thành một khối. Lòng dân là lũy thép. Đoàn kết toàn dân là sức mạnh vô địch. Nếu lực lượng lãnh đạo, xác định đại đoàn kết chỉ nhằm đạt được ý đồ chính trị của một tổ chức, một bộ phận thì đoàn kết sẽ chỉ là một thủ đoạn chính trị, thiếu sự chân thành; trên thực tế những lời hứa hẹn của họ chỉ là giả dối và lừa phỉnh. Còn nhìn nhận đại đoàn kết như là một nhu cầu, một đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, thì đại đoàn kết sẽ là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Khi ấy, lực lượng lãnh đạo có sứ mệnh thức tỉnh, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu tự nhiên, tự phát của quần chúng thành nhu cầu tự giác, thành hiện thực có tổ chức và sức mạnh.

- Tin vào dân, kính trọng dân, dựa vào dân, phục vụ dân là một nguyên tắc cơ bản trong chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.

Dân là một khái niệm đã có từ xa xưa. Tuy nhiên, ở các thời điểm lịch sử khác nhau, khái niệm “dân” có những nội hàm khác nhau và ở một chừng mực nào đó phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội. Dân, đặt trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có ý nghĩa tương đồng với các khái niệm: Nhân dân, Dân chúng, Quần chúng.

Dân theo Hồ Chí Minh là mọi người dân Việt Nam, là mọi “con dân nước Việt”, là “Mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện”, trong đó công nông chiếm tuyệt đại đa số. Với Người, khái niệm “dân” có biên độ đến tất cả những ai vẫn còn thừa nhận là con dân nước Việt Nam. Xuất phát từ lợi ích tối cao của dân tộc, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề “dân” một cách rõ ràng, có sức thuyết phục, thu phục lòng người, xây dựng được Mặt trận đoàn kết thống nhất dân tộc rộng rãi, một trong những nhân tố chủ yếu bảo đảm thắng lợi của cách mạng.

Tin vào dân, dựa vào dân trong chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa và nâng cao tư duy chính trị truyền thống: “Lấy dân làm gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “dễ mười lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Nguyên tắc này của Người thống nhất biện chứng với nguyên lý mác-xít “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, nhưng nội hàm khái niệm “quần chúng” của Người rộng hơn. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, kính dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì dân, phục vụ dân là nguyên tắc tối cao, xuyên suốt trong tư duy chiến lược và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc sống còn đó được Người khái quát ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1) và “gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(2). Có thể khái quát nguyên tắc này thành những luận điểm chủ yếu sau đây: Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết; dân là chủ thể đại đoàn kết; dân là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng; dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản, của hệ thống chính trị cách mạng.

Khái quát trên có thể tìm thấy ngọn nguồn ngay từ trong những lời ngắn gọn ở bài báo “Dân vận” Người viết năm 1949: “Nước ta là nước dân chủ./ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân./ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân./ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân./ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân./ Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra./... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(3).

Sống và đấu tranh theo nguyên tắc cốt lõi này, Hồ Chí Minh đã trở thành lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân, của nhân dân tất cả các dân tộc Việt Nam. Lý tưởng cách mạng cao cả của Người bắt nguồn từ lòng nhân ái bao la, lòng tin vô hạn đối với nhân dân, với dân tộc. Người yêu thương và tin tưởng vào khả năng tiến bộ của mọi người, biết khơi dậy ở con người khả năng tiềm tàng, thức tỉnh, giáo dục con người tự giác đứng lên đấu tranh cho sự nghiệp chính nghĩa của quốc gia - dân tộc và đồng thời là cho chính bản thân mỗi người. Người luôn lấy lòng khoan dung độ lượng mà đối xử với những người lầm đường lạc tối, biết làm cho phần tốt trong mỗi con người được nảy nở như hoa xuân và phần xấu bị héo mòn đi để họ hoàn lương trở về với xã hội, với cộng đồng dân tộc. Chủ nghĩa nhân văn của Hồ Chí Minh tượng trưng cho những giá trị cao đẹp trong quan hệ giữa người với người. Cuộc sống và đấu tranh của Người là một điển hình, là tấm gương soi cho quần chúng nhân dân, cho dân tộc. Người sống và hành động thủy chung, trong sáng với dân, với nước, với bạn bè gần xa. Xuất phát từ tiền đề khách quan và cơ bản nói trên, về cả lý luận và tổ chức thực tiễn, chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là minh triết, đoàn kết chân thành và lâu dài, trong sáng, thủy chung - khối đại đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh thực sự trở thành một rừng cây đại đoàn kết, một vườn hoa trăm hồng ngàn tía, đẹp sắc thơm hương và sum suê trái ngọt. Rừng cây ấy có gốc rễ ăn sâu lan rộng trong toàn dân, có một tương lai “trường xuân bất lão”.

- Đại đoàn kết một cách tự giác, tự nguyện, không cưỡng ép, không giả tạo; đoàn kết có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết lâu dài, bền vững.

Với Hồ Chí Minh, nguyên tắc nhất quán đại đoàn kết không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời, mà phải là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức, có lãnh đạo. Đây là một nguyên tắc cốt lõi phân biệt chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của một số nhà yêu nước và lãnh tụ cách mạng khác. Giáo sư Trần Văn Giàu đã có nhận xét tinh tế rằng: Đến Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là tình cảm của “người chung một nước phải thương nhau cùng” nữa, mà đã được xây dựng trên cả một cơ sở lý luận.

Trước khi chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra đời, lực lượng quần chúng thường được nhìn nhận là một lực lượng xã hội tự phát mù quáng. Các thế lực chính trị đã lợi dụng sức mạnh tự phát của quần chúng để thực hiện các ý đồ của họ vì những quyền lợi ích kỷ. Ở Việt Nam cũng có những nhà yêu nước thấy được sức mạnh quần chúng, có tâm nguyện thức tỉnh, tập hợp quần chúng đấu tranh vì quyền lợi của chính quần chúng. Song, vì không có lý luận khoa học, phương pháp tuyên truyền, tổ chức đúng đắn nên dù động cơ vì dân, vì nước trong sáng, kết cục vẫn bi thảm. Sự nghiệp của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám, của các tổ chức yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ XX ở nước ta, điển hình là Việt Nam quốc dân Đảng là những dẫn chứng sinh động của tấn bi kịch lịch sử đó.

Với Hồ Chí Minh, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ vào cuộc đấu tranh để tự giải phóng là mục tiêu nhất quán. Người đến và tin theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bởi vì Người tìm thấy trong các học thuyết cách mạng đó cái cần thiết, cẩm nang thần kỳ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người kiên trì truyền bá những tri thức của chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà Người đã tiếp thu có chọn lọc vào Việt Nam nhằm giúp cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động nước ta nhận thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình, biến sức mạnh tự phát của quần chúng thành sức mạnh tự giác. Như vậy, đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết theo một lý tưởng cách mạng chân chính. Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh có phạm vi rất rộng lớn, nhưng không phải là một tập hợp hỗn loạn, lỏng lẻo, mà là một tập hợp có tổ chức. Lực lượng đại đoàn kết bao gồm tất cả các giai tầng xã hội, các ngành, giới, lứa tuổi, dân tộc, tôn giáo... hợp thành Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Xương sống và sức mạnh chủ yếu của khối đại đoàn kết dân tộc là khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Mối quan hệ giữa Mặt trận Dân tộc thống nhất với liên minh công - nông - trí là sự phản ánh về mặt tổ chức xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc - giai cấp. Tách biệt hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của Mặt trận Dân tộc thống nhất, liên minh công - nông đều không đúng với biện chứng của đời sống cách mạng, không đúng với nguyên tắc chiến lược của Hồ Chí Minh. Tuyệt đối hóa vai trò, vị trí của liên minh công nhân - nông dân, hạ thấp vai trò của Mặt trận Dân tộc thống nhất sẽ dẫn đến cực đoan, tả khuynh và “bệnh” cô lập, hẹp hòi. Ngược lại, nhấn mạnh, đề cao một chiều vai trò của Mặt trận Dân tộc thống nhất, coi nhẹ liên minh công nhân - nông dân và Đảng tiên phong của nó sẽ dẫn đến hữu khuynh, vô nguyên tắc, vô chính phủ. Sự thật, Mặt trận Dân tộc thống nhất càng rộng rãi bao nhiêu, sức mạnh của liên minh công nhân - nông dân - trí thức càng to lớn bấy nhiêu; ngược lại, liên minh công - nông - trí càng được củng cố, tăng cường thì Mặt trận Dân tộc thống nhất càng vững chắc, càng có sức mạnh.

Đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc. Đảng Cộng sản là một bộ phận hữu cơ của khối đại đoàn kết dân tộc. Song, theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản phải là lực lượng lãnh đạo, linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng Cộng sản chính là tuyên truyền, giáo dục để quần chúng giác ngộ sự cần thiết phải đoàn kết lại là tìm chọn những hình thức, phương pháp tổ chức thích hợp để có thể thu hút, tập hợp rộng rãi nhất, đông đảo nhất các lực lượng yêu nước, tiến bộ trong dân chúng; là hướng dẫn khối đại đoàn kết toàn dân đấu tranh, lao động sáng tạo theo những mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động. Nói khái quát, đại đoàn kết phải được xây đựng trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo - đó là nguyên tắc chiến lược bất di bất dịch của Hồ Chí Minh. Chỉ có tuân thủ nguyên tắc này, đại đoàn kết mới có sức sống bền vững và trường tồn.

Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang quyết tâm hỗ trợ, cứu giúp bà con nhân dân bị ảnh hưởng bởi lũ lụt ở Thái Nguyên_Ảnh: congthuong.vn

 

3. Nền tảng của khối đại đoàn kết

Bảo đảm những lợi ích tối cao của toàn dân tộc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động là nền tảng vững chắc khối đại đoàn kết.

Thiên tài của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất ở việc Người giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích: Giai cấp và dân tộc; cá nhân và tập thể; gia đình và xã hội; bộ phận và toàn thể; quốc gia và quốc tế.

Giữa những cặp quan hệ nói trên luôn chứa đựng những yếu tố thống nhất và mâu thuẫn: Các yếu tố đó lại luôn luôn biến đổi theo sự biến đổi của đời sống thực tiễn. Như trên đã nói, nguyên tắc đại đoàn kết Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng, phát huy những yếu tố tương đồng, thống nhất để khắc chế, giải quyết các yếu tố khác biệt, mâu thuẫn, theo phương châm chỉ đạo: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết và tất cả do con người, vì con người. Tìm ra mẫu số chung là lợi ích của toàn dân tộc, hạn chế và khắc phục sự cách biệt, đặt tiến trình xoáy trôn ốc đi lên của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ - đó chính là cốt lõi và là sự khác biệt, độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh so với những quan niệm của các nhà lý luận cách mạng cùng thời.

Mẫu số chung của khối đại đoàn kết dân tộc, theo Hồ Chí Minh chính là độc lập, tự do. Hạt nhân sáng chói và trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên hành tinh của chúng ta là: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(4).

 Độc lập, tự do là lẽ sống và là một nội dung cơ bản trong tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó cũng chính là sức mạnh thu phục lòng người và là “chất keo” kết dính toàn dân tộc. Nó là nguồn gốc của niềm tin và ý chí chiến đấu kiên cường của Người, của dân tộc; là nhiệm vụ cơ bản lâu dài và cũng là nhiệm vụ cấp bách và nóng bỏng nhất của cả dân tộc Việt Nam trong những năm tháng sống đau khổ, quằn quại và phẫn uất trong cảnh nước nhà bị phong kiến, thực dân, đế quốc thống trị. Song, đối với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn luôn gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân. Người tuyên bố: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(5). Chính vì vậy, ngay trong những ngày kháng chiến gian khổ của nhân dân ta, Hồ Chí Minh vẫn rất coi trọng việc xây dựng, thực hiện khẩu hiệu “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, chăm lo xây dựng chế độ mới, cuộc sống mới, từng bước nâng cao quyền tự do dân chủ cho đông đảo nhân dân, cho dân tộc. Người luôn luôn phấn đấu làm cho toàn dân thấy được giá trị của quyền tự do dân chủ và từng bước được hưởng quyền tự do dân chủ trong tiến trình phấn đấu giành độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh suốt đời “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(6).

 Không có gì quý hơn độc lập, tự do - tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh vừa có bệ đỡ của quá khứ, phản ánh được khát vọng của hiện tại và soi sáng tương lai của cả dân tộc, vừa hợp với chính nghĩa của các quốc gia dân tộc trên thế giới. Đó chính là “chìa khóa” vạn năng, điểm hội tụ thắng lợi của chiến lược “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”(7).

 Độc lập, tự do là quy luật tồn tại và phát triển xuyên suốt trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng độc lập tự do hàm chứa một nội dung tổng hòa biện chứng độc đáo về ba cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Các cuộc cách mạng được thể hiện bằng các chiến lược cách mạng cụ thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, thích ứng với hoàn cảnh lịch sử, đất nước, xã hội và con người Việt Nam. Không cam chịu cảnh nước mất nhà tan, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Qua quá trình tìm tòi, khảo sát, Hồ Chí Minh đã xác định, trong thời đại mới, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Vì thế, năm 1930, sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định chủ trương chiến lược cách mạng của Đảng là làm tư sản dân quyền cách mạng, thổ địa cách mạng và đi tới xã hội cộng sản. Song, cách mạng Việt Nam trước hết phải làm một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Vì nếu không giải phóng được dân tộc thì quyền lợi của các giai cấp và vấn đề ruộng đất cho nông dân đến vạn năm cũng không thể giải quyết được.

Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên thành chủ nghĩa dân tộc hiện đại và phát triển đến đỉnh cao lợi ích chân chính của quốc gia, mục tiêu đại nghĩa của dân tộc, hạnh phúc của toàn dân trong xu thế phát triển khách quan về dân tộc, xã hội và con người của thời đại, đúc kết thành chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(8).

Đó chính là mục tiêu và động lực của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam trong tiến trình cách mạng, kháng chiến nhằm dựng xây đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”(9), làm cho Việt Nam thành một quốc gia độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.

(còn tiếp)

----------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 453

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 502

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 130

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 187

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 628

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 130

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 131