Chuyên trang của Tạp chí Cộng sản nghiên cứu, tuyên truyền nghiệp vụ công tác Đảng
Đọc nhiều nhất
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò của kinh tế tư nhân và Đảng viên được làm kinh tế tư nhân

XDĐ - Vấn đề phát triển kinh tế tư nhân (doanh nghiệp ngoài nhà nước) và đảng viên được làm kinh tế tư nhân đã đi vào thực tiễn và có thành tựu rõ rệt. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận khi mới ra đời thường có tranh luận và có những ý kiến trái ngược nhau.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện với cử tri các quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng (thành phố Hà Nội)_Ảnh: TTXVN

Trong Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng (sau đây gọi tắt là Dự thảo) chỉ rõ: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về quy mô phải gương mẫu chấp hành Điều lệ Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và quy định của BCH Trung ương…”. Chủ trương nói trên là một bước phát triển tư duy lý luận của Đảng ta. Song, đây là vấn đề mới nên trong Đảng khi ấy có những ý kiến trái ngược. Có ý kiến không đồng ý quan điểm trong Đảng có thể có đảng viên làm kinh tế tư nhân với những lý lẽ cho rằng Đảng là chính đảng, là đội tiên phong chính trị của giai cấp. Một người đảng viên, nhất là trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN), không thể vừa là chiến sĩ cộng sản lấy việc xóa bỏ chế độ bóc lột làm lý tưởng đời mình, lại vừa làm ông chủ tư bản lấy bóc lột lợi nhuận làm lẽ sống. Người đảng viên là công dân nhưng không phải mọi điều công dân được làm thì đảng viên cũng được làm, bởi đối với đảng viên, ngoài pháp luật còn phải tuân theo Điều lệ Đảng. Đó là những lập luận rõ ràng, đơn giản, quen thuộc đã tồn tại ngót một thế kỷ.

Trái lại, cũng có nhiều ý kiến đã đăng trong Tạp chí Xây dựng Đảng (từ số 10-2005) không những tán thành mà còn khâm phục những quy định nói trên của Dự thảo. Bởi qua tổng kết, suy nghĩ, cân nhắc thận trọng từ kinh nghiệm thực tiễn 20 năm đổi mới và quán triệt một cách sâu sắc toàn diện Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã thể hiện rõ sự phát triển sáng tạo tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH), về con đường, bước đi, mô hình của CNXH ở Việt Nam, trong đó có vấn đề rất quan trọng là tư duy lý luận về xây dựng Đảng. Những ý kiến ấy cho rằng những người cộng sản Việt Nam trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên trì con đường XHCN đã lựa chọn nhằm mục đích cuối cùng là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tức là xóa bỏ tận gốc chế độ bóc lột người ở nước ta và góp phần vào cách mạng thế giới. Chính vì vậy, Dự thảo đã ghi: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Ghi như vậy là chặt chẽ, đầy đủ, nghiêm túc, thể hiện rõ lý tưởng cao đẹp của một đảng chân chính cách mạng và tinh thần trách nhiệm cao trước Nhân dân, đất nước.

Về tiêu chuẩn đảng viên “không bóc lột người” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong cuốn sách Thường thức chính trị, Người chỉ rõ: Chúng ta kháng chiến để giữ vững độc lập, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH, xóa bỏ chế độ bóc lột người, quyết không xây dựng chủ nghĩa tư bản (CNTB) bởi vì “CNTB  là chế độ một bọn ít người bóc lột và thống trị đại đa số nhân dân… Dưới chế độ ấy, bọn tư bản chiếm các tư liệu sản xuất (…) làm của riêng. Nhưng tự họ không lao động, mà thuê công nhân sản xuất để bóc lột công nhân(1). Lẽ tự nhiên là chế độ ấy, nhà nước ấy là của giai cấp tư sản, giai cấp tư sản sử dụng nhà nước làm công cụ để duy trì và bảo vệ sự bóc lột của chúng.

Vấn đề đặt ra là người đảng viên phải đấu tranh lật đổ nhà nước tư sản, xóa bỏ chế độ tư bản, giành chính quyền về tay nhân dân, xây dựng chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng chế độ XHCN. Dưới chế độ ấy không thể có đất cho CNTB phát triển, không thể có chế độ tư bản bóc lột người. Cần hiểu rõ nội hàm khái niệm chế độ để có nhận thức đúng thực chất vấn đề. Theo Từ điển chính trị(2) thì chế độ là: “Chính thể, hình thức tổ chức chính trị của một nước”; là “toàn bộ cơ cấu chính trị, kinh tế, xã hội của một nước…”; là “quy chế sinh hoạt… đã được xác định một cách chính xác, chặt chẽ”; là “hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực, quy tắc, biện pháp, định mức đã được quy định cho một loại hình hoạt động nào đó…”. Như vậy, chế độ chính trị ở Việt Nam hiện nay với Nhà nước của dân, do dân, vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; với đầy đủ sức mạnh của nó (lập pháp, hành pháp, tư pháp); với toàn bộ chính sách nội trị (kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ…) và ngoại giao đều do Đảng thống nhất lãnh đạo, hoàn toàn có cơ sở khoa học, sức mạnh thực tế để chủ động phát huy mọi nguồn lực, mọi năng lực của toàn xã hội, mọi cơ hội để xây dựng và phát triển kinh tế trong khuôn khổ của các thể chế kinh tế và toàn bộ hệ thống pháp luật cùng các quy định của Nhà nước để nó vận hành và phát triển theo định hướng XHCN. Sự phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu ở nước ta không phải là buông lỏng cho “bàn tay vô hình” tự do vận động thành chế độ tư bản, chế độ bóc lột người, nhưng cũng không phải “bàn tay sắt” bóp nghẹt sự năng động, sáng tạo của mọi người. Đảng ta lãnh đạo Nhà nước; nhà nước pháp quyền tạo ra một hành lang pháp lý để có sự cạnh tranh lành mạnh trong khuôn khổ pháp luật. Tất cả các thành phần kinh tế đều nằm trong hệ thống nền kinh tế quốc dân, đều được tự do phát triển, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nền kinh tế ấy được xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, không thể có sự ra đời của chế độ tư bản, dù tư bản hiện đại hay tư bản hoang dã như có đồng chí e ngại.

Nói đến bóc lột hay không bóc lột thì phải tính tới có lao động hay không và phân phối như thế nào? Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nhà tư bản không lao động, thuê công nhân để bóc lột công nhân. Vậy các nhà doanh nghiệp tư nhân ở ta hiện nay có xếp vào khuôn mẫu ấy không? Họ có thực sự mang danh là nhà tư bản theo đúng nguyên nghĩa của từ này không?

Theo tôi, gọi họ là doanh nhân là rõ ràng, minh bạch. Doanh nhân Việt Nam hiện nay hoạt động trong nền kinh tế quốc dân do Nhà nước XHCN Việt Nam thống nhất quản lý, không thể là nhà tư bản. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi họ là “giới Công - Thương Việt Nam”. Người đánh giá vai trò của họ trong nền kinh tế quốc dân: “Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng”. Và, Người đã xác định cho họ: “Giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”. Người hứa: “Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này(3).

Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế _ Ảnh: laodong.vn

Doanh nhân Việt Nam hiện nay không phải là nhà tư bản bóc lột người theo nghĩa như ta vẫn hiểu trước đây. Bởi vì, họ là người lao động, họ có vốn (nguồn vốn chính đáng do lao động quá khứ mà có, nguồn vốn bất chính Nhà nước sẽ trừng trị). Họ là nhà quản lý - người lao động sáng tạo (sáng tạo trong tổ chức, điều hành, trong giao tiếp thương trường trong nước và quốc tế, có trình độ kỹ thuật và công nghệ và có khả năng tiếp nhận, ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, họ thích ứng với nền kinh tế tri thức trong xu thế khách quan toàn cầu hóa của thời đại).

Về thu nhập, Chính phủ Việt Nam có một hệ thống chính sách để thực thi nguyên tắc phân phối hợp lý: Phân phối theo lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Như vậy, các chủ doanh nghiệp sẽ có thu nhập cao hơn người lao động khác (nhân viên, công nhân…) là hợp lý, không thể coi là bóc lột theo cách tính toàn bộ giá trị thặng dư do lao động của công nhân tạo ra còn chủ doanh nghiệp chỉ bằng mọi cách tước đoạt của công nhân. Không nên nhầm lẫn giữa bình quân và công bằng. Phân phối như trên là công bằng, không bình quân.

Doanh nhân nào (dù là thành phần kinh tế nhà nước hay tư nhân) đạt được những thành tựu cao, có đóng góp xứng đáng cho đất nước, cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, được xã hội tôn vinh, Nhà nước thừa nhận, tán thành Điều lệ và các quy định của Đảng thì họ xứng đáng đứng trong hàng ngũ của những người cộng sản, là chiến sĩ tiên phong trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu của CNXH. CNXH không phải là danh từ hoa mĩ, nó có nội dung xác định, không chỉ xác định về định hướng mà xác định cả về định lượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: “CNXH là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”(4), “CNXH là mọi người dân được áo ấm cơm no, nhà ở tử tế, được học hành”(5); “CNXH nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”(6) và “CNXH là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là CNXH”(7). Trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, Dự thảo đã ghi: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đảng ta là đảng chính trị. Mục tiêu chính trị của Đảng ta là lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(8). Đảng ta là đảng chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Lê-nin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi. Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Lê-nin, Đảng Lao động Việt Nam đã được nhân dân tin tưởng, được nhân dân coi là đội tiên phong giác ngộ của mình...”(9).

Đảng ta là đảng chính trị. Đảng mang trong mình bản chất khoa học và cách mạng; quá trình hình thành và phát triển của Đảng là sự kết hợp Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Với nền kinh tế nhiều thành phần, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân nước ta ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, giữ vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta. Với phong trào yêu nước của nhân dân ta đang được phát huy cao độ với nội dung mới là thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trung thành và tiếp thu sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, tư duy lý luận của Đảng ta đã và đang ngày càng đổi mới và phát triển. Với xu thế phát triển khách quan của thời đại và dựa trên nền tảng vững chắc đã nêu trên thì việc để đảng viên làm kinh tế không giới hạn và việc kết nạp những người tiên tiến trong phong trào yêu nước (trong đó có các doanh nhân) hiện nay, là lẽ tự nhiên hợp quy luật; là lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của Đảng ta.

Cách đây 45 năm, khi nói về việc xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh đã viết:

“Tất cả phục vụ sản xuất. Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất, để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn có CNXH thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất…

Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”(10).

Khu vực kinh tế tư nhân đang chiếm một tỷ trọng lớn trong thu nhập quốc dân. Khu vực ấy đang ngày càng có số lượng quần chúng đông đảo. Vì vậy, lẽ tự nhiên là Đảng phải xây dựng tổ chức của mình để làm tròn sứ mệnh lãnh đạo quần chúng, đưa các doanh nghiệp tư nhân phát triển đúng hướng, không chệch sang con đường TBCN. Và cũng là lẽ tự nhiên Đảng ta cần phải kết nạp những người tiên tiến, có ý chí cách mạng (lấy kết quả sản xuất và lãnh đạo sản xuất làm thước đo như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy) trong khu vực sản xuất tư nhân vào Đảng. Kết nạp họ vào Đảng chính là làm cho Đảng ta thật vững mạnh, bởi, thông qua những đảng viên đang sống, làm việc với khối quần chúng đông đảo ấy, Đảng ta mới thực hiện được tư tưởng của V.I.Lê-nin về Đảng là:

“Sống trong lòng quần chúng/ Biết tâm trạng quần chúng/ Biết tất cả/ Biết đến với quần chúng/ Giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng.

Những người lãnh đạo không được tách rời khỏi quần chúng bị lãnh đạo, đội tiên phong không được tách rời khỏi toàn bộ đội quân lao động”(11).

Kinh nghiệm 20 năm đổi mới (1986-2006) đã chứng minh cho quy định trong Dự thảo Báo cáo chính trị và Điều lệ Đảng sửa đổi là đúng. Đúng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Những quy định đó sẽ tạo ra một luồng sinh khí mới làm tăng thêm niềm phấn khởi và lòng hăng hái, tin tưởng của nhân dân các dân tộc nước ta đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và đó mới chính là cơ sở chắc chắn để xây dựng Đảng ta vững mạnh.

Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XI (2011) của Đảng đã đưa vai trò kinh tế tư nhân được nâng tầm cao mới với chỉ đạo: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật”(12). Đại hội XII (tháng 1-2016) của Đảng tiếp tục xác nhận kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế và lần đầu tiên xuất hiện khái niệm tập đoàn kinh tế tư nhân(13). Kế thừa các đại hội trước, tại Đại hội XIII của Đảng, tư duy lý luận về vai trò, vị thế của kinh tế tư nhân ở nước ta tiếp tục được nâng lên, khẳng định phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững “thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân...(14).

Đầu tư cho kinh tế tư nhân phát triển không phải là mục tiêu, mà là phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội và con người, góp phần xây dựng thành công XHCN ở Việt Nam.

----------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.248
(2) Từ điển chính trị, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va và NXB Sự thật, H.1988.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.53
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.XI
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.490
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.78, tr.438
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.289
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.412
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.68
(11) V.I.Lê-nin: Toàn tập, t.44, tr.608, 256
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.107-108
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.240


Bài viết liên quan Bài viết liên quan

Mới nhất Mới nhất

Đọc nhiều nhất Đọc nhiều nhất